cảm nghĩ bài phó giá về kinh
Bạn đang đọc bài viết Sống trọn vẹn để cảm nhận đầy đủ sự yêu thương tại chuyên mục Nghệ thuật sống của Báo Nông Nghiệp Việt Nam. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng gửi về hòm thư [email protected] hoặc số điện thoại, Viber: 0369024447 .
Dùng phép điệp ngữ và các yếu tố trùng điệp. A DẶN DÒ - Học thuộc và đọc diễn cảm bài thơ. - Nhớ được 8 yếu tố Hán Việt trong bài thơ. - Học tiếp bài Phò giá về kinh. PHÒ GIÁ VỀ KINH ( TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ ) TRẦN QUANG KHẢI u000b I/ Giới thiệu :u000b 1/ Tác giả
Phò giá về kinh là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trần Quang Khải. Em hãy trình bày cảm nghĩ của mình sau khi học xong - Chia sẻ bài viết Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh của tác giả Trần Quang Khải – Văn mẫu lớp 7 đặc sắc nhất mới nhất
Hủy Hợp Đồng Vay Tiền Online. Hướng dẫn Đề bài Phat bieu cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh. Anh chị hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ phò giá về kinh của Nguyễn Quang Khải. Mở bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Trần Quang Khải 1241-1294 con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông và ông được phong chức thượng tướng,có công rất lớn trong cuộc kháng chiến chống mông nguyên xâm là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc có những vần thơ “sâu xa lí thú” không chỉ vậy ông còn là võ tướng kiệt xuất. Bài thơ phò giá về kinh được ông sáng tác trong hoàn cảnh ông đi đón thái thượng hoàng Trần Thánh Tông về Thăng Long,ngay sau khi chiến thắng Chương Dương,Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm thơ được tác giả viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật có cách gieo vần tương tự thất ngôn tứ tuyệt. Thân bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Hai câu thơ “Đoạt sáo Chương Dương độ, Hảm Tử bắt quân thù” Chương Dương là bến sông nằm ở hữu ngạn sông hồng,thuộc huyện Thường Tín tỉnh Hà thắng Chương Dương diễn ra vào tháng sáu năm Ất Dậu do chính Trần Quang Khải chỉ từ “ Hàm Tử” là một địa điểm ở tả ngạn sông hồng thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ của Trần Quang Khải. Đó là những trận thủy chiến oanh liệt trên chiến tuyến sông Hàm tử diễn ra vào tháng tư khoảng hai tháng sau Trần Quang Khải đại thắng giặc ngoại xâm quân Nguyên –mông tại Chương Dương,hàng vạn tên lính bị tiêu diệt thì bị bắt làm tù ta vừa đẩy lùi được giặc ngoại xâm vừa chiếm được nhiều thuyền,vũ khí và lương thực của quân giặc. Cụm từ “Đoạt sáo” và “Cầm hồ” được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như nốt nhấn trong khúc ca đại thơ hào hùng oanh liệt thể hiện được khí thế hào hùng của dân tộc ta lúc bấy vua quan lại trong triều đình đến nhân dân ai cũng hả hê vui mừng vì cuộc đại thắng. Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt kết hợp với nhịp thơ nhanh,gấp và các động từ biểu thị tác động mạnh mẽ dứt khoát nhưđoạt,cướp lấy thể hiện nhịp thơ sôi động dồn dập của trận chiến khiến cho người đọc có thể hình dung ra được khí thế của trận chiến ấy oanh liệt biết nhường hè năm Ất Dậu là một mốc son lịch sử trọng đại trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta,hiện thực ấy đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hào hùng tráng khiến bài thơ trở nên hào hùng mang đậm chất tính hùng ca. Trong đoạn thơ tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật là liệt kê và phép đối để làm nổi bật lên hai sự kiện lịch sử mang tầm vóc chiến chiến thắng Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện trên chiến trường của dân ta từ chỗ rút lui chiến lược thành quân ta đã tiến lên phản công như vũ trận chiến quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu sang xâm lược nước ta khi ấy kinh thành Thăng long chìm trong khói lửa ngút trời vận nước ta lúc bấy giờ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng với tài thao lược và tài cầm quân của những vị anh hùng quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận lấy yếu đánh hai trận chiến Chương Dương và Hàm tử đã giáng xuống đầu bọn giặc phương bắc những bài học nhớ đời về tinh thần chiến đấu của dân tộc ta,kinh thành Thăng long được giải phóng. Trần quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã để lại dấu ấn trong lịch sử cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in sâu vào lịch sử chống giặc ngoại xâm,lịch sử văn chương như một trang chói lọi,để viết được những vần thơ hay như vậy thì ông phải là người trong cuộc đứng ở một góc độ nào đấy hơn cả là ông ó lòng yêu thương quê hương đất nước thì ông mới có thể viết ra được những vần thơ hay như thế. Hai câu thơ tiếp Thái bình tu chí lực, Vạn cổ thử gian san. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu Hai câu thơ trên là lời của vị tướng muốn nói với dân hãy tập trung vào xây dựng phát triển non sông đất nước hòa bình và tin tưởng vào sự bền vững muôn đời của Tổ vừa từ chiến trường trở về áo còn vương mùi thuốc súng chưa kịp nghỉ ngơi ông đã nghĩ ngay đến việc trước mắt cũng như lên kế sách lâu dài cho quốc gia ông nhấn mạnh “trong thời bình mọi người cần phải dốc sức vào xây dựng non sông và phát triển đất nước,dân giàu nước mạnh thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm đồng thời chủ quyền độc lập mới được lâu dài”.Điều đó chứng tỏ ông vừa là một vị tướng tài ba vừa có lòng thương dân một lòng hướng tới non sông đất nước,luôn đặt trách nhiệm với dân,với nước lên hàng đầu. Kết bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Với hình thức diễn đạt cô đúc,dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng,bài thơ “Phò giá về kinh” đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. TỪ KHÓA TÌM KIẾM Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của em về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của anh chị về bài thơ Phò giá về kinh Cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh Cam nghi cua em ve bai tho Pho gia ve kinh Theo Topics Cảm nghĩ cảm nghĩ về bà chiến thắng hòa bình khát vọng mùa hè phát biểu cảm nghĩ Phò giá về kinh quê hương Trần Quang Khải
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Hướng dẫn lập dàn ý chi tiết và tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ Phò giá về kinh Trần Quang Khải.Dàn ý phân tích bài thơ Phò giá về kinh1. Mở bàiGiới thiệu về tác giả, tác phẩm- Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước ta, ghi dấu ấn lại bằng những chiến thắng oanh liệt trước giặc xâm lăng, trong số đó phải kể đến chiến thắng vang dội khiến giặc ngoại xâm phải khiếp sợ đó chính là cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ “Phò giá về kinh” được Trần Quang Khải sáng tác khi mà quân và dân đã giành chiến thắng vang dội, vua và dân nhà Trần quay trở về kinh đô Thăng Long. Đây được coi là bài ca khải hoàn ca đầy lẫy lừng của dân tộc ta. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, bằng chữ Thân bài- Phân tích hai câu thơ đầu+ Mở đầu bài thơ là hai câu thơ nhắc đến hai chiến thắng lịch sử đánh dấu ấn quan trọng trong việc phá tan giặc Nguyên Mông đó là chiến thắng tại Chương Dương và Hàm Tử năm 1285“Đoạt sáo Chương Dương độ,Cầm Hồ Hàm Tử quan.”+ Hai câu thơ có thể được dịch như sau “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân thù”.+ Chương Dương và Hàm Tử chính là hai địa danh thuộc tả và hữu của con sông Hồng. Dưới sự chỉ huy của vị tướng tài ba Trần Quang Khải quân và dân ta đã dành chiến thắng vẻ vang tại hai phòng tuyến quan trọng này.+ Hai câu thơ tuy rằng không nhắc đến sự khốc liệt của cuộc chiến, đến binh đao đến máu chảy nhưng hai động từ “đoạt sáo” và “cầm hồ” đã thể hiện được ý chí chiến đấu vô cùng ngoan cường của quân và dân ta.=> Lời thơ như đưa ta vào giữa cuộc chiến tranh, được đứng giữa cái cảm giác nâng nâng của sự chiến thắng, chiến thắng đã vang động cả đất trời.– Phân tích hai câu thơ cuối+ Tương lai của đất nước được Trần Quang Khải suy ngẫm và nhắn nhủ đến toàn thể dân tộc “Thái bình nên gắng sức,/ Non nước ấy ngàn thu”.+ Đây là lời nhắn nhủ của vị tướng tài ba kiệt xuất về tương lai của đất Việt, nền thái bình là tất cả mọi người từ già trẻ lớn bé, gái trai từ vua đến quân, dân đều phải tự ý thức trách nhiệm xây dựng và bảo vệ nền thái bình đó “tu trí lực”,=> Muốn như thế mỗi con người chúng ta cần tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, tài năng cống hiến cho đất nước, tinh thần đoàn kết chính là sức mạnh vượt qua mọi khó khăn thử thách.+ Câu kết “Vạn cổ thử giang san” chính là sự nhấn mạnh của Trần Quang Khải kết quả của sự cố gắng dựng xây và bảo vệ đất nước kia chính là “Non nước” ấy lưu danh ngàn đời trường tồn đến hàng ngàn năm sau, đây cũng chính là ước mơ của tác Kết bài- “Phò giá về kinh” đã ra đời đến mấy trăm năm lịch sử nhưng giá trị mà bài thơ để lại vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày nay. Vị danh tướng tài ba - một nhà thơ lớn của dân tộc Trần Quang Khải đã dành hết tâm tư của mình cho bài thơ, nhắc nhủ đến toàn thể nhân dân, chính đoàn kết là sức mạnh dẫn đến chiến thắng, đồng thời cũng nêu lên tinh thần tự hào dân tộc và nhắc nhở mọi người cần tu dưỡng tài năng, đạo đức cống hiến của tổ bài văn mẫu hay nhất phân tích bài thơ Phò giá về kinhPhò giá về kinh là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Trần Quang Khải, đứng trong hàng ngũ những bài thơ yêu nước xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Bài thơ vừa thể hiện âm hưởng chiến thắng hào hùng vừa cho thấy tầm nhìn xa trông rộng về đường hướng phát triển đất nước của tác thơ làm ngay sau khi quân ta giành chiến thắng, lúc đó Trần Quang Khải đi đón và hộ giá Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh thành Thăng Long. Bởi vậy bài thơ ra đời trong âm vang chiến thắng hào hùng của chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử do đích thân Trần Quang Khải chỉ huy chiến câu thơ đầu là cảm hứng tự hào trước những chiến công của thời đại, mang tính thời sự nóng hổi Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân thù. Câu thơ ngắn gọn, chỉ có năm chữ mà chắc nịch ý tứ và niềm vui. Câu thơ như dồn nén sức mạnh và sự thần tốc, chớp nhoáng của các chiến công. Các động từ mạnh mẽ, dứt khoát đoạt, cầm mang phong cách của một vị tướng. Đồng thời còn diễn tả được không khí sục sôi của những sự kiện lịch sử có ý nghĩa xoay chuyển cục diện chiến trường. Chương Dương là trận đấu mở màn nhưng lại có ý nghĩa quyết định đến chiến thắng của cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai. Câu thơ vang lên thật hào sảng, hân hoan niềm vui. Đầu mỗi câu thơ gắn với hai địa danh Chương Dương, Hàm Tử đây là những địa danh chói lọi gắn liền với những chiến công lịch sử của dân tộc, nó cũng trở thành biểu tượng cho thắng lợi huy hoàng. Nhắc lại hai địa danh đó càng làm niềm vui, niềm tự hào được nhân lên hơn nữa. Ngoài ra tác giả còn sử dụng từ ngữ mang sắc thái biểu cảm chữ Hồ thường được người phương Bắc dùng để gọi các dân tộc thiểu số phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc. Bởi vậy khi dùng chữ này với quân xâm lược Mông – Nguyên tác giả thể hiện sự khinh với niềm vui chiến thắng, nhưng đằng sau đó ta vẫn thấy một Trần Quang Khải có tầm nhìn xa trông rộng, hết sức quan tâm đến vận mệnh đất nước. Hai câu thơ trên lướt nhanh qua những dòng sự kiện để rồi đọng lại những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc Thái bình nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu. Hai câu thơ cho thấy cho thấy suy nghĩ, tầm nhìn của một vị thủ lĩnh, trong niềm vui chung của đất nước, ông không bị cuốn đi, không an lạc trong chiến thắng mà vẫn nêu lên nhiệm vụ sau khi giành được độc lập. Ông nêu lên trách nhiệm dẫu thái bình vẫn phải dốc hết sức lực để xây dựng, phát triển đất nước, có như vậy sông núi nước Nam mới bền vững muôn thuở. Hai câu thơ cuối vừa là chân lí vừa là kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn chiến đấu lâu dài của dân tộc. Cũng chính bởi lời dặn dò ấy, mà nhân dân ta đã tiếp tục đánh thắng sự xâm lược của quân Mông - Nguyên lần tiếp theo, cũng bởi thế mà vận mệnh đất nước lâu bền, thịnh trị, nhân dân được sống trong cảnh yên ấm, hạnh phúc. Câu thơ đã thể hiện tầm nhìn của một con người có hiểu biết sâu rộng, cái nhìn sáng suốt, chiến lược trong tương thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn với số câu chữ ít ỏi, nhưng vô cùng hàm súc. Số câu chữ ít ỏi những đã khái quát đầy đủ sự kiện lớn của dân tộc và nêu lên chân lí lớn của thời đại. Kết cấu thơ chặt chẽ, ngôn từ chọn lọc, nhịp thơ ngắn gọn, kết hợp giữa biểu ý và biểu cảm. Vừa đưa ra những sự kiện lịch sử chính vừa thể hiện niềm vui, sự hân hoan trước chiến thắng và những suy tư, chiêm nghiệm sau khi đất nước đánh bại quân xâm thơ với ngôn ngữ chọn lọc, cô đọng giàu sức biểu cảm đã cho thấy hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trịnh của nhân dân đời Trần. Đồng thời khẳng định chân lí vừa mang ý nghĩa thời sự vừa mang ý nghĩa lịch sử“Thái bình nên gắng sứcNon nước ấy ngàn thu”.Tham khảo thêmPhát biểu cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinhHướng dẫn soạn bài Phò giá về kinhBài mẫu 1Trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên xâm lược đời Trần, Thượng tướng Trần Quang Khải đã lập được nhiều chiến công to lớn. Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thư nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tuy tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn dầu tiên của dân tộc ta trong cồng cuộc kháng chiến chống ngoại thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa dược đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó, bài thơ Phò giá về kinh của vị thượng tướng - thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ HánĐoạt sáo Chương Dương độ,Cầm Hồ Hàm Tử bình tu trí lực,Vạn cổ thử giang đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim Chương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn cục tác phẩm gồm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầuChương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân hiểu lịch sử, biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quang Khải chỉ nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định để giành thắng lợi cuối cùng?Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và các triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phấn khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước tháng 4 năm 1285, chiến thắng Chương Dương sau tháng 6 năm 1285.Tại sao tác giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Đây cũng là câu hỏi thú vị. Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước - Hàm Tử - người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền niềm vui được "phò giá" dồn dập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và tâm lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dùng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú,... Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết. Ở mỗi chiến thắng, cũng đúc lại bằng hai từ "đoạt sáo" cướp giáo, "cầm Hồ" bắt quân Hồ.Cần chú ý câu thơ nguyên tác "đoạt sáo". "Đoạt" nghĩa gốc là "lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác". Như vậy, dùng từ "đoạt sáo", nhà thơ vừa ghi chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ "cướp giáo" làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quân giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng. Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau, bổ sung cho nhau, thật hài hòa, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ không nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động "đoạt sáo", "cầm Hồ".Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta. Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khoẻ. Nhưng nhịp thơ, âm điệu vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào hùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn hai câu dưới, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lai đất nướcThái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm, cố gắng "tu trí lực", tức là rèn luyện, tu dưỡng tài năng, sức lực. Đồng thời ông động viên quân dân "gắng sức, đồng lòng" phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết "Vạn cổ thử giang san" vừa chỉ ra cái đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ biểu cảm. Lời răn dạy hài hoà với niềm tin, niềm hi năm sau khi bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng lăng vua Trần Thái Tông, đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơXã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,Sơn hà thiên cổ điện kim âu.Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,Non sông nghìn thuở vững âu vàngPhải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Thượng tướng Trần Quang Khải ? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hào khí Đông A ? Hào khí Đông A nghĩa là thế nào ? Đông A là chiết tự tên họ Trần, gồm hai chữ chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, lại với bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, ta thấy bài thơ thật ngắn gọn, hàm súc, biểu ý sâu sắc, biểu cảm dạt dào. Trong bài thơ có nhiều từ Hán Việt, nhưng khá quen thuộc với chúng ta ngày nay, như "Chương Dương độ, Hàm Tử quan, thái bình, trí lực, vạn cổ, giang sơn". Do đó, đọc thơ, chịu khó tìm tòi, suy ngẫm, chúng ta hiểu được và rung cảm được với ý thơ, hồn thơ của tác giả - người sống cách chúng ta gần một ngàn năm. Nếu ta gọi bài thơ Sông núi nước Nam là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, thì cũng có thể coi Phò giá về kinh là khúc khải hoàn ca đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm và trong lịch sử văn học Việt hình thức diễn đạt cô đúc, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ Phò giá về kinh đã thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà mẫu 2Thượng tướng Trần Quang Khải là một vị tướng văn võ song toàn, từng có công rất lớn trong hai cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên. Sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, chiến thắng giải phóng kinh đô năm 1285, ông được cử đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về kinh. Trên đường đi, ông đã sáng tác bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại câu đầu của bài thơ thể hiện chiến thắng hào hùng vang dội của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông xâm sáo Chương Dương độCầm Hồ Hàm Tử quanChương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân thù.Như chúng ta đã biết, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thời vua Trần, nhân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng tại sao Trần Quang Khải chỉ nói đến chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử mà không hề nhắc đến trận Bạch Đằng? Phải chăng đây là hai chiến thắng tiêu biểu, có tính quyết định dứt khoát để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, được trở về kinh đô, trở về nhà trong niềm vui sướng? Trong thực tế lịch sử, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước, chiến thắng Chương Dương sau. Tại sao tác giả lại nói ngược lại, nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Tìm hiểu lịch sử, ta thấy rằng, người chỉ huy trận Hàm Tử là tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn ở trận Chương Dương, Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó được cử hộ giá nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền với niềm vui được “phò giá” dồn dập nối tiếp cộng hưởng cho nhau. Có lẽ vì thế mà trong phút ngẫu hứng, vị tướng đã nhắc ngay đến chiến thắng Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch, quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm, khí thế, quyết đoán. Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn với hai động từ mạnh đó là “đoạt” và “cầm”. “Đoạt” nghĩa là “lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác”. Như vậy, dùng từ “đoạt sáo”, nhà thơ vừa ghi nhận chiến công vùa ngợi ca hành động chính nghĩa, dũng cảm của quân ta. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí của giặc thì ở Hàm Tử, ta bắt sống được tướng giặc ngay tại trận. Trong chiến trận chắc chắn có thương vong, tổn hại lực lượng của cả bên ta lẫn bên địch. Nhưng lời thơ không đề cập đến, vì mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là giết kẻ thù mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải trả lại đất nước cho ta. Giọng thơ khỏe khoắn, hùng tráng, âm điệu tươi vui, rộn ràng làm ta có cảm giác vị tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vùa đi vừa cất tiếng ngâm thể nói, hai câu thơ trên đã tái hiện không khí chiến thắng oanh liệt, tình cảm phấn chấn, tự hào của nhà thơ trên đường hộ tống nhà vua về xuống hai câu sau, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ dường như đang suy nghĩ về tương lai đất nướcThái bình tu trí lực,Vạn cổ thử giang san.Thái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu.Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về tương lai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng của một người đã trở thành động lực, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng “tu trí lực”, bởi tu dưỡng trí tuệ, rèn luyện sức lực là hai yếu tố tiên quyết của một con người và một dân tộc nếu muốn làm nên chiến thắng, muốn xây dựng hòa bình. Đồng thời, ông động viên quân dân gắng sức, đồng lòng phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình, bền vững dài lâu chứ không được ngủ quên trên chiến thắng. Câu thơ cuối vừa chỉ ra cái chặng đường đi tiếp của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ lại mang tính biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa với niềm tin, niềm hy vọng của quân dân câu thơ sau là khát vọng hòa bình sau khi giành được chiến thắng vang dội và sự mong muốn xây dựng nền hòa bình cho đất nước lâu dài. Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng, đồng thời cũng là lời nhắn nhủ với quân dân chúng ta không được phép ngủ quên trên chiến thắng. Điều đó thể hiện trí tuệ, biết lường trước được mọi việc, tầm nhìn xa trông rộng của một vị lãnh đạo tài ba biết lo cho dân cho nước. Để cho non nước được nghìn thu, hòa bình bền vững, thì khát vọng hòa bình không chỉ là khát vọng của riêng của người lãnh đạo mà còn là khát vọng chung của cả dân cách nói chân thành, với câu chữ giản dị, mộc mạc, “Tụng giá hoàn kinh sư” đã thể hiện hào khí chiến thắng vang dội và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta trong thời đại nhà đây là nội dung dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu với chủ đề phân tích bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải. Bằng việc đọc và tham khảo kết hợp với những tri thức đã được học trên lớp về tác phẩm, các em hoàn toàn có thể viết được một bài văn hoàn chỉnh đảm bảo yêu cầu đề bài. Chúc các em học tốt !
Cảm nhận bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải Mở bài Trần Quang Khải là vị dũng tướng có công công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Bài thơ PHÒ GIÁ VỀ KINH Tụng giá hoàn kinh sư là một trong những bài thơ xuất sắc, hiếm hoi còn để lại của Trần Quang Khải và của nền thi ca Lý-Trần Thân bài Đây là bài thơ ra đời trong giai đoạn lịch sử dân tộc thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc đang trên đường vừa bảo vệ vừa củng cố, xây dựng một quốc gia tự chủ rất mực hào hùng. Đặc biệt bài thơ nhắc lại hai chiến thắng vang dội của quân và dân ta đời Trần năm 1285 tại bến Chương Dương và cửa Hàm Tử dưới sự chỉ huy của Thái sư Trần Quang khải góp phần xoay chuyển thế trận, tạo điều kiện cho ông hộ giá đưa vua Trần Nhân Tông về lại kinh thành Thăng Long Bài thơ được viết khi Trần Quang Khải đi đón hai vua Trần Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông về Thăng Long ngay sau khi chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương và giải phóng kinh đô 1285. Bài thơ ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần, hào khí Đông A, khẳng định quyết tâm và khát vọng xây dựng nền thái bình muôn đời cho đất nước. “Tụng giá hoàn kinh sư” là bài thơ của một vị chủ tướng nói về những chiến công của quân và dân ta đã đạt được trong hai cuộc kháng chiến. Mà ông là người cũng có những đóng góp không nhỏ để lập nên những chiến công lớn lao, hiển hách đó. Hai câu thơ đầu bài thơ tập trung khắc hoạ nhũng chiến công lùng lẫy của quân ta Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Hai câu thơ đầu nhịp thơ khẩn trương, mạnh mẽ, chỉ có vẻn vẹn mười chữ nhưng lượng thông tin nén trong chúng chật ắp. Những động từ mạnh được đảo lên dầu câu thơ.’ đoạt, cầm đã diễn tả một cách sinh động thế chủ động áp đảo, đầy uy lực của quân đội nhà Trần trước kẻ thù. Trong cái thế vũ bão của quân dân ta, hình ảnh kẻ thù trờ nên bạc nhược, đáng khinh Hổ cách dùng của người Trung Quốc với thái độ khinh miệt. Hai câu thơ ngắn gọn đó có tói 4 tiếng nói về hai địa danh Chương Dương và Hàm Tử. Đó là những địa danh hào hùng gắn với những chiến công giòn giã làm đảo ngược tình thế. Mới ngày nào, hơn 50 vạn quân do Thoát Hoan cẩm đầu tràn sang như sóng dữ hòng nuốt chửng Đại Việt. Giặc từ hai phía kẹp lại như gọng kìm, từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra. Vận nước như ngàn cân treo sợi tóc. Quân ta phải rút lui chiến lược. Nhưng sự đồng lòng của vua tôi nhà Trần, tài thao lược của các tướng sĩ đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Tháng 4 năm Ất Dậu 1285, rồi tháng 6 năm đó, quân ta liên tiếp giáng đòn sấm sét xuống đầu quần giặc. Chiến công nối tiếp chiến công, niềm hân hoan chiến thắng vang lừng non sông. Trước mắt ta như hiện ra hình ảnh của đoàn quân tràn đầy khí thế, bước hành quân rầm rập, tung bừng ngọn cờ khải hoàn Ba quán hùng khí át sao Ngưu Phạm Ngũ Lão, Tỏ lòng. Câu thơ của Trần Quang Khải như một trang kí sự chân thực, hào hùng. Điều đặc biệt là tác giả không liệt kê các chiến thắng theo trình tự thời gian mà ông đã nhắc tới chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Trong lúc này tác giả và quân dân đời Trần đang sống trong không khí chiến thắng Chương Dương đang diễn ra. Từ niềm vui đó mới sống lại chiến thắng Hàm Tử trước khoảng hai tháng vì thế mà chiến tháng Chương Dương sau nhưng được ca ngợi trước. Hai địa danh này trở thành hai chiến công rực rỡ ở đời nhà Trần. Có lẽ không chi bởi trận Chương Dương có tính chất quyết định để giải phóng kinh đô mà còn bởi chiến thắng ấy vừa mới diễn ra, tính thời sự nóng hổi. Hơi thở của hào khí Đông A còn vang dội, niềm hân hoan, phấn khởi như đang truyền đến từng người. Ẩn sau cách kể khách quan của tác giả phải chăng còn là niềm tự hào và chút phấn chấn của riêng Trần Quang Khải khi chính ông góp sức vào sự nghiệp bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng ? Hai câu thơ cuối thể hiện khát vọng hòa bình như một lời động viên xây dựng, phát triển đất nước với niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử gian san. Đất nước đã sạch bóng quăn thù, nền thái bình đang mở ra một tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc, nhưng tác giả vẫn không quên nhắc nhở về nhiệm vụ trước mắt và cũng là nhiệm vụ lâu dài Thái bình tu trí lực. Tu trí lực nghĩa gắng sức đem tài trì, đem sức người, sức của ra xây dựng lại đất nước ngày càng vững mạnh. Theo nhà thơ, sự bền vững và thịnh trị của dân tộc không phải tự nhiên mà có, mà nó là kết quả phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân. Điều này bộc lộ tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược lớn Trần Quang Khải. Ông đã không “ngủ quên” trong chiến thắng mà chính lòng tự hào về những chiến công đạt được ngày hôm nay đã thôi thúc ý chí, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Lời thơ của Trần Quang Khải nhắn nhủ tới mỗi chúng ta bài học cảnh giác hết sức sáu sắc. Không những thế lời thơ còn là lời khích lê, động viên, lời truyền gửi tới mỗi chúng ta niềm tin vào sức mạnh tự cường sẽ xây dựng “non sông nghìn thuở vững âu vàng” Trần Nhân Tông, Tức sự. Phải là người rất thông minh, tài hoa và có tấm lòng yêu nước thương dân cao cả, Trần Quang Khải mới viết nên những vần thơ sâu xa, lí thú đến như vậy. Bài thơ mang tính thời sự nóng hổi nhưng lại mang ý nghĩa lâu bền bởi bài thơ không chỉ chứa dựng hào khí chiến đấu và khát vọng hoà bình của cha ống ta dời nhà Trần, mà đó cũng là hào khí và khát vọng muôn đời của dân tộc ta trong mọi thời đại. Ý tưởng và suy nghĩ đó xuất phát từ đáy lòng, từ trái tim yêu nước và hùng khí của một nhà quý tộc tôn thất, vị tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao, một nhà chính trị xuất sắc đầu đời Trần. Phò giá về kinh biểu đạt ý tưởng lớn lao, rõ ràng theo kiểu nói cô đúc, giọng chắc nịch, không văn hoa. Cảm xúc trữ tình được ẩn chứa bên trong ý tưởng. Bài thơ được đánh giá là “khúc ca khải hoàn” ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Bài thơ dử dụng các động từ mạnh trong việc miêu tả hai chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử. Câu trên đối xứng với câu dưới về thanh, nhịp, ý. Giọng điệu, âm hưởng thơ hùng hồn, mạnh mẽ phản ánh chân thực hào khí Đông A. Kết bài Bài thơ bộc lộ niềm sảng khoái của người chiến thắng, thể hiện hào khí Đông A của thời đại nhưng lại không mang niềm vui an lạc. Vị chiến tướng chưa kịp nghĩ ngơi đã lo đến nhiệm vụ trước mắt cũng là kế sách lâu dài cho vương triều, cho đất nước. Bài thơ chỉ có hai mươi chữ nhưng đã vừa bô’ cáo được thành quả thời kỳ chiến tranh giữ nước lại vừa đặt ra nhiệm vụ trong hòa bình. Trần Quang Khải là một chiến tướng đồng thời là một nhà chiến lược”. III. LUYỆN TẬP Câu 1 Trả lời ngắn gọn. + Bài thơ “Phò giá về kinh” viết theo thề thơ nào? + Bài thơ tái hiện chiến thắng nào trong lịch sử dân tộc? + Bài thơ “Phò giá về kinh” được đánh giá là gì? + Tình cảm và thái độ của tác giả được thể hiện trong bài thơ là gì? + Biện pháp nghệ thuật nào đã dược sử dụng trong hai câu thơ đầu bài thơ? Câu 2 Cách đưa tin chiến thắng trong hai câu thơ đầu bài thơ có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại sử dụng cách đó? Câu 3 Hai câu thơ cuối, tác giả đã gửi gắm điều gì? Qua đó, em nhận xét gì về tầm tư tưởng của nhà thơ? Câu 4 Hào khí Đông A được thể hiện như thế nào qua bài tha Tụng giá hoàn kinh sư? Câu 5 Điểm giống và khác nhau giữa bài thơ “Sông núi nước Nam” và “Phò giá về kinh”. Giống nhau – Đều diễn đạt ý tưởng và cách nói chắc nịch, cô đúc trong đó ý tưởng và cảm xúc hoà làm một. – Đều thể hiện bản lĩnh khí phách hào hùng của dân tộc ta. Một bài là nêu cao chân lí vĩnh viễn, thiêng liêng Nước Việt Nam là của người Việt Nam, kẻ thù xâm phạm tất sẽ bị bại vong. Một bài là thể hiện khí phách hào hùng dân tộc, khát vọng xây dựng và phát triển cuộc sống hoà bình, niềm tin vào sự bền vững muôn đời của đất nước. Khác nhau Bài 1 viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài 2 viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.
cảm nghĩ bài phó giá về kinh